Khái niệm cơ bản trong nhiếp ảnh
Mỗi thiết bị ảnh từ chiếc webcam nhỏ gọn được tích hợp trên máy tính xách tay hay đến những chiếc máy ảnh full-frame chuyên nghiệp của Canon, Nikon đều được xây dựng trên cùng một nguyên tắc cơ bản. Khởi nguồn của nhiếp ảnh là một sơ đồ ghi nhận ánh sáng. Khi bạn nhìn thấy một cảnh vật nào đó tức là các nguồn sáng đó đang gửi đến mắt bạn một bản ghi phản chiếu ánh sáng từ vật thể.Kỹ thuật phổ biến nhất để ghi nhận ánh sáng đó là việc thu nhận thông qua một ống kính được kết nối với vật liệu cảm quang và ghi nhận hình ảnh. Vật liệu hấp thụ ảnh sáng trước đây là phim mà sau này được thay thế bằng cảm biến điện tử trên các máy ảnh số. Dù là vật liệu gì thì việc ghi nhận ánh sáng đầu tiên được thực hiện bằng cách mở một màn trập ở đầu cảm quang. Bằng cách điều chỉnh màn trập mở bao nhiêu lâu (tốc độ màn trập), độ nhạy của cảm biến kỹ thuật số (ISO) và lượng ánh sáng được đi qua ống kính (khẩu độ) từ đó người chụp sẽ làm chủ được bức ảnh ghi nhận ở cảm biến.
Vì ánh sáng là thông tin duy nhất được máy ảnh thu thập do đó không gì là ngạc nhiên khi bạn thấy những bức ảnh đủ sáng sẽ đẹp hơn so với những bức ảnh chụp trong điều kiện ánh sáng yếu, phức tạp. Khi chụp ảnh thiếu sáng, hoặc là máy phải làm việc vất vả hơn để nhạy sáng với các nguồn sáng yếu (ISO cao hơn) hoặc ta phải chờ khoảng thời gian dài hơn để lượng sáng đi vào ống kính nhiều hơn (tốc độ màn trập chậm hơn). Những lúc đó đèn flash sẽ là “vị cứu tính” cho bạn. Nhưng bù lại bạn phải biết điều chỉnh cân bằng trắng nếu không các vật thể ở gần sẽ quá sáng do gần đèn còn các vật thể ở xa lại thiếu sáng hoặc nếu chụp chân dung chắc chắn sẽ bị hiệu ứng mắt đỏ quen thuộc từ khi bạn chụp ảnh với đèn flash trên điện thoại.
Cuối cùng, điều quan trọng nhất trong nhiếp ảnh là sự cân bằng. Nếu bạn muốn chất lượng hình ảnh luôn tốt nhất có thể, bạn sẽ cần các thiết bị chuyên nghiệp với giá cả đắt đỏ, thiết kế cồng kềnh. Nếu bạn cần một thiết bị di động cao bạn sẽ phải chấp nhận hài lòng với chất lượng hình ảnh mà thiết bị đó đem lại. Đó chính là lý do bạn nên đọc bài viết này để cân đối nhu cầu và lựa chọn cho mình một thiết bị phù hợp nhất.
Các chìa khóa để kiểm soát một bức ảnh
ISO
Mức ISO được đặt trên cơ sở chuẩn hóa của Tổ chức tiêu chuẩn thế giới (International Organization for Standardization) và ISO không chỉ thể hiện độ nhạy sáng cho tất cả các máy ảnh chứ không riêng gì cảm biến. Ban đầu nó được gọi là “độ nhạy phim” vì nó là đại lượng để thể hiện mức độ hấp thụ ánh sáng trên phim và không thể thay đổi. Giờ đây với các máy ảnh kỹ thuật số, ISO đã dễ dàng thay đổi. ISO cao nghĩa là máy (cảm biến) sẽ dễ dàng tiếp nhận ánh sáng (nhạy sáng) và bức ảnh này sẽ sáng hơn (nếu giữ các thông số khác không đổi). Đương nhiên bạn sẽ phải hi sinh như chất lượng màu thay đổi đặc biệt là ảnh sẽ nhiễu hơn.
Chất lượng của cảm biến cùng bộ vi xử lý sẽ giúp giảm độ nhiễu khi tăng ISO để bức ảnh trở nên hoàn hảo hơn. Trong thử nghiệm của phóng viên, những thiết bị chuyên nghiệp như Canon 5D Mark III và Nikon D4 cho phép xử lý ISO 12.800 mà chất lượng ảnh tương đương với các thiết bị ở ISO 1000.
Khẩu độ
Khẩu độ tức là độ mở của ống kính cho ánh sáng (hình ảnh) đi vào phim hay cảm biến. Khẩu độ mở càng lớn thì lượng ánh sáng đi vào càng nhiều và ngược lại.
Tuy nhiên khẩu độ không phải tăng theo các bậc mà có các khẩu độ phổ biến là f/1.4 – 1.8 – 2.8 – 3.2 - … - 11 – 16 – 22… Con số trên càng lớn tức là khẩu độ càng nhỏ. Khẩu độ quyết định đến 2 yếu tốt là độ sáng của hình và độ sâu của ảnh. Như định nghĩa từ đầu thì khẩu độ là “cánh cửa” cho phép ánh sáng đi vào. Nếu cửa mở càng rộng thì ánh sáng đi vào càng nhiều và hình sẽ càng sáng hơn. Một yếu tố khác đó là độ sâu của ảnh. Khi khẩu độ đóng càng nhỏ thì ảnh sẽ có độ sâu hơn khi là khẩu độ mở lớn hơn. Nhiều bạn xem ảnh thường thắc mắc chụp ảnh sao cho “mờ mờ” hậu cảnh hay nhìn các mode teen lung linh hơn chính là nhờ vào độ sâu trường ảnh do khẩu độ quyết định. Bên cạnh đó nếu khéo léo sử dụng khẩu lớn ta còn tạo nên bokeh với hiệu ứng ánh sáng lung linh.
Tốc độ
Ở đây với người mới làm quen với nhiếp ảnh cần chú ý. Tốc độ ta nhắc đến không phải là khả năng chụp được bao nhiêu ảnh trong 1 giây mà là khoảng thời gian màn trập mở để ánh sáng đi vào cảm biến.Như ví dụ ở trên, khi ta mở cánh cửa ra ở độ rộng nhất định (cố định khẩu độ) thì muốn ghi nhận hình ảnh ta phải cửa trên lại (màn trập đóng). Tốc độ ở đây là thời gian mở cánh cửa trên, mở càng lâu thì ánh sáng lọt vào càng nhiều. Tốc độ được tính bằng 1/giây với các tốc độ tiêu biểu: 1/8000s - 1/6400s - 1/5000s - ... - 1/125s - 1/60s....1s - 2s - ... nhưng trên máy sẽ chỉ hiển thị phần mẫu số. Tức là trên máy con số càng lớn thì tốc độ càng nhanh, lượng ánh sáng vào càng ít.
Tốc độ chụp cũng ảnh hưởng đến chất lượng bức ảnh. Cụ thể nếu tốc độ chụp càng chậm thì ảnh càng dễ bị rung. Trong điều kiện thiếu sáng ta thường chụp ở tốc độ chậm để ảnh sáng hơn nhưng ảnh sẽ dễ bị nhòe đặc biệt khi chụp vật thể di chuyển. Để khắc phục ta thường dùng chân giữ máy cố định, cố gắng cố định vật thể hoặc dùng đến các nguồn sáng ngoài. Ở tốc độ cao ta có thể bắt được các khoảnh khắc ấn tượng trong thể thao thậm chí là đường bay của viên đạn. Tuy nhiên khi chụp ở tốc độ chậm cũng mang lại những hiệu ứng nhất định ví dụ như ảnh chụp bánh xe đạp sẽ nhòe nhòe cho ta cảm giác bánh xe đang quay hay chụp phơi sáng với các nguồn sáng di chuyển, phơi sáng thác nước cho dòng nước chảy “mịn như một dải lụa”
Độ nét của ống kính
Các bạn có thể thiết lập các tùy chỉnh thông số trên máy ảnh dễ dàng nhưng chất lượng hình ảnh sẽ phụ thuộc rất nhiều vào ống kính mà bạn sử dụng. Không phải ống kính nào cũng đủ tốt để thu nhận hình ảnh sắc nét và chi tiết: hình ảnh trung thực, màu sắc tách biệt rõ ràng đến từng điểm ảnh.Thật đáng tiếc là hiện nay chẳng có một thông số kỹ thuật nào để bạn nhìn vào có thể xác định được chất lượng của ống kính. Vì vậy cách đơn giản nhất là hãy đến cửa hàng và thử trực tiếp trước khi quyết định mua. Một số yếu tố khác mà các nhà sản xuất thường làm “hoa mắt” người dùng khi hiệu suất của nó không tốt như thế. Ví dụ như những ống kính có khẩu lớn f/1.4 nhưng thực sự nó chỉ dùng tốt khi ở khẩu f/1.8. Tương tự như vậy, ở những ống kính zoom bạn sẽ gặp phải tình trạng méo hình hay quang sai khi ở góc rộng (16mm trở xuống) hay tele (135mm trở lên). Đương nhiên những lỗi này thì có thể khắc phục được bằng phần mềm tự động.
“Ma trận” ống kính làm hoa mắt ngay cả những người chuyên nghiệp.
Có một vài nguyên tắc có thể giúp bạn đưa ra những lựa chọn đúng. Đầu tiên là vật liệu xây dựng nên ống kính. Chẳng hạn dòng L series của Canon được xây dựng với chất lượng tốt và bền bỉ ngay từ vẻ ngoài. Nếu nhìn vào các ống kit đi kèm với máy ảnh DSLR hay ống gắn liền trên thân máy khác bạn sẽ thấy nó được làm từ nhựa cả bên trong và bên ngoài. Nói thế không có nghĩa là tất cả các ống kính vỏ kim loại sẽ có chất lượng quang học tốt hơn ống kính vỏ nhựa nhưng đó là quy luật chung và ít nhất là ống kính với chất liệu vỏ tốt sẽ bền bỉ hơn.
Ống kính một tiêu cự và ống zoom.
Điểm thứ 2 cần ghi nhớ là ống kính không có chức năng zoom, ống kính một tiêu cự (prime lens) thường có chất lượng tốt hơn ống kính tiêu cự thay đổi (ống zoom) nhờ thiết kế đơn giản. Để có chất lượng ảnh tốt nhất, bạn nên chọn mua máy ảnh có thể thay đổi ống kính và chọn cho mình một vài ống kính ở các tiêu cự phổ biến nhất: 24mm, 50mm, 80mm, 100mm và 200mm. Đương nhiên với việc mang vác cả balo thiết bị như trên sẽ chẳng dễ dàng gì cho một buổi dã ngoại nhưng như đã đề cập ngay từ bài 1: nhiếp ảnh luôn phải hi sinh vì điều gì cũng có giá trị của nó.
Tự động lấy nét
Một khái niệm được đề cập đến ở đây là “shutter lag”. Có thể tạm hiểu shutter lag là độ trễ từ khi ta bấm nút chụp cho đến khi hình ảnh được thật sự ghi nhận tại cảm biến. Rất nhiều ý kiến cho rằng độ trễ nói trên là do khả năng bắt nét kém của thiết bị nhưng đó không phải là tất cả. Độ trễ mà ta ít để ý đến chính là trễ do hệ thần kinh của chúng ta từ khi nhìn thấy cảnh vật đến lúc bấm nút chụp. Đương nhiên máy cần thời gian để tính toán, thiết lập thông số và lấy nét nhưng trong trường hợp bạn quan tâm đến khả năng lấy nét nhanh và chính xác thì có thể sử dụng tính năng chụp liên tiếp. Thâm chí mới đây Samsung đã tiên phong trong khả năng này bằng cách tích hợp tính năng “Best Shot” cho phép chụp ảnh liên tiếp sau đó chọn ra bức hình tốt nhất hoàn toàn tự động.Hệ thống điểm lấy nét
Tất cả các nhà sản xuất điện thoại và máy ảnh đang cố gắng né tránh vấn đề về tốc độ lấy nét nhưng giải pháp duy nhất hiện nay là tăng số lượng điểm lấy nét kết hợp một motor lấy nét nhanh hơn cho các ống kính. Độ chính xác và tốc độ lấy nét tự động là một trong những yếu tố quyết định đến giá thành của máy ảnh. Chẳng hạn chiếc Canon EOS 1D-X có tới 61 điểm lấy nét trong đó 41 điểm lấy nét chính xác xếp theo hình chữ thập. Việc sử dụng lấy nét lai (lấy nét theo pha và lấy nét theo tương phản) đã giúp cải thiện tốc độ lấy nét. Việc có nhiều điểm lấy nét hơn cũng giúp bạn dễ dàng bố trí bố cục cho bức ảnh thay vì phải lựa chọn tư thế chụp khác.Kích cỡ cảm biến ảnh
Một quy tắc trong nhiếp ảnh là việc có cảm biến lớn hơn đồng nghĩa với việc hình ảnh tốt hơn. Đó chỉ là một quy tắc tổng quan nhưng nó dựa trên các cơ sở sau: cảm biến lớn đồng nghĩa với việc diện tích bề mặt cảm quang lớn tương đương với việc ánh sáng được ghi nhận nhiều hơn đồng thời cùng một thời điểm. Có thể lấy một vài bằng chứng như chiếc Nikon 1 series đã làm người dùng thất vọng bởi cảm biến kích thước CX của nó hoặc với Nokia Lumia 1020 là (một trong những) chiếc smartphone chụp ảnh đẹp nhất trên thị trường là nhờ vào cảm biến 1/1.5-inch của nó. Những chiếc máy ảnh Full-Frame luôn là lựa chọn của các nhiếp ảnh gia.
Kích thước cảm biến càng lớn thì số điểm ảnh càng lớn và có thể thu nhận nhiều ánh sáng hơn mà không cần một tín hiệu khuếch đại. Do vậy các điểm ảnh lớn hơn sẽ có chất lượng sắc nét hơn, mượt mà hơn và khử nhiễu tốt hơn ở ISO cao.
Những máy ảnh DSLR hoặc APS-C (hay cảm biến DX) chuyên nghiệp có bộ cảm biến full-frame là kích thước tiêu chuẩn tương đương với những phim 35mm. Nhờ đó hình ảnh của máy này cho chất lượng hoàn hảo, sắc nét được những người có nhu cầu cao sử dụng. Trong khi đó những máy ảnh du lịch chỉ dùng cảm biến kích thước nhỏ và các nhà sản xuất thường chẳng bao giờ đề cập đến kích thước cảm biến trên sản phẩm của mình.
Megapixel (số “chấm”)
Một trong những yếu tố mà không ít người mới sử dụng máy ảnh quan tâm khi chọn mua là chiếc máy này bao nhiêu megapixel (MP). Họ cứ mặc định rằng máy ảnh 16MP sẽ cho chất lượng tốt hơn máy 12MP nhưng điều này không hoàn toàn đúng.Đầu tiên cái mà gọi là MP chính là độ phân giải của ảnh. Nó chỉ lượng thông tin được chứa đựng trong một tập tin ảnh kỹ thuật số thể hiện được trên các thiết bị hoặc khi in ra và thông thường tính bằng pixel. Như vậy việc pixel càng cao thì ảnh càng chứa đựng nhiều thông tin hơn và chi tiết hơn nhưng việc bức ảnh có độ phân giải rất cao có thể chứa nhiều thông tin hơn mức độ mắt người có thể nhận biết.
Megapixel luôn là thông số kỹ thuật “móc túi” người dùng.
Trở lại với định nghĩa về MegaPixel. Đây là đơn vị tính độ phân giải của thiết bị quang học. Mỗi MegaPixel tương đương 1 triệu pixel. Thực tế con số này đã được các nhà sản xuất làm tròn từ con số kỹ thuật là 1.048.676 pixel. Vì thế nếu bạn đọc được thông tin về máy ảnh này có bao nhiêu MP thì đó chỉ là cách làm tròn của nhà sản xuất, hơn thế người ta còn hay làm tròn theo khung hình, ví dụ 1600 x 1200 ~ 1.9 MP được gọi là máy ảnh 2MP.
Hầu hết máy in ảnh tốt nhất tại 200 hoặc 300 PPI (pixel trên mỗi inch). Như vậy với máy ảnh kỹ thuật số có lớn hơn 6MP đều đáp ứng tốt các yêu cầu để in một bức ảnh 8” x 10”. Người ta cũng nhận thấy rằng khi in 2 bức hình từ ảnh 4MP và 6MP thì mắt người không nhận thấy có quá nhiều sự khác biệt. Với các máy ảnh hiện nay đều có độ phân giải từ 12MP thậm chí là camera trên các smartphone đều từ 5MP thì các nhu cầu sử dụng đều đáp ứng tốt.
Mục đích phân tích ở đây là để bạn nhận ra một điều: số MP giờ đây chỉ có tính chất thương mại khi các nhà sản xuất tăng “số chấm” để tăng giá thành. Với nhu cầu của bạn chủ yếu là lưu giữ khoảnh khắc, chia sẻ ảnh với bạn bè trên mạng xã hội thì chỉ 1MP cũng là đủ. Nếu bạn muốn chụp ảnh để in khổ lớn như biển quảng cáo hay những bức tranh hoành tráng thì lúc đó hãy cân nhắc đến độ phân giải. Những thông số kỹ thuật khác quan trọng hơn nhiều.
Ống ngắm/Màn hình LCD
Ở đây chúng ta đề cập đến việc ngắm ảnh trước khi chụp một bức hình.
Đầu tiên là ống ngắm quang học (OVF - Optical ViewFinder). Trên máy ảnh du lịch còn được gọi là “máy ảnh ống ngắm thẳng” bởi cấu trúc đơn giản nhất. Hình ảnh trong ống ngắm khác hẳn so với vị trí khi chụp bởi do ống ngắm quang học nằm khác vị trí với ống kính. Tuy nhiên trên các máy ảnh SLR thì hình ảnh bạn nhìn thấy chính là hình ảnh sẽ ghi nhận vào cảm biến. Kính ngắm quang học có ưu điểm là tiết kiệm pin, cho hình ảnh chính xác (trên máy SLR) và quan trọng là giảm độ trễ khi chụp và giảm rung do tư thế cầm ngắm.
Lựa chọn khác để ngắm là thông qua màn hình LCD. Trên các máy du lịch và DSLR thì màn hình LCD là điều không thể thiếu. Do đặc điểm của hệ thấu kính bên trong nên thời gian đầu máy ảnhDSLR không có tính năng ngắm chụp “live preview” nhưng nhược điểm này đã được khắc phục. Màn hình LCD sẽ cho phép bạn quan sát hình ảnh trực quan cùng các thông số kỹ thuật nhưng sẽ bị giới hạn bởi chất lượng màn hình. Các bạn sẽ thấy các nhà sản xuất nhắc đến số điểm ảnh trên màn LCD của máy ảnh với các con số quen thuộc như: 230.000, 460.000, 920.000 hay trên các thiết bị cao cấp là 1.040.000 điểm ảnh. Con số này càng cao đồng nghĩa với việc màn hình hiển thị càng rõ nét nhưng chất lượng màn hình không phải lúc nào cũng đồng đều do các công nghệ sản xuất màn hình khác nhau nổi bật trong đó là màn hình OLED đang được Samsung và Sony trang bị trên các mẫu máy mới nhất. Gần đây các nhà sản xuất đã tích hợp màn hình cảm ứng lên máy ảnh với tính năng chạm để lấy nét mang lại những trải nghiệm mới. Việc sử dụng màn hình LCD còn làm giảm tốc độ chụp (trên máy SLR), bị rung trong khi chụp (do tư thế cầm) và chắc chắn sẽ tiêu tốn khá nhiều điện năng.
Một lựa chọn khác là sử dụng ống ngắm điện tử (EVF - Electronic ViewFinder). Hình ảnh sẽ đi vào một cảm biến phụ, đưa lên màn hình OLED nhỏ có độ phân giải cao. Như vậy có thể nói EVF là sự tổ hợp của OVF và LCD do đó nó mang những ưu điểm và nhược điểm của 2 công nghệ nói trên. EVF cho độ bao phủ cao, hình ảnh nhìn thấy là đã qua xử lý nên có thể nhìn trong tối. Tư thế ngắm EVF cũng tương tự tư thế ngắm qua OVF.Cân bằng trắng
Thực ra đây là một trong những yếu tố rất quan trọng trong nhiếp ảnh. Cân bằng trắng là việc căn chỉnh sao cho màu trắng trên hình đúng nhất với màu trắng mà mắt người cảm nhận được. Cân bằng trắng sẽ làm thay đổi toàn bộ màu sắc của bức ảnh và nhiệm vụ của người chụp là làm sao cho tổng thể màu sắc đúng với thực tế nhất. Quá trình này được thực hiện ngay sau khi ảnh được định màu trên bộ xử lý ảnh.
Sử dụng cân bằng trắng ra sao sẽ quyết định đến chất lượng của bức ảnh. Các máy ảnh hiện nay mặc định sẽ để cân bằng trắng tự động (Auto White Balance – AWB). Với các thuật toán được lập trình sẵn, máy ảnh sẽ phân tích và định ra cân bằng trắng tốt nhất cho bức hình. Hiện nay AWB đáp ứng hầu hết các nhu cầu sử dụng tuy nhiên máy móc không phải lúc nào cũng đúng và đó là lúc bạn phải can thiệp vào. Trước hết là các tùy chọn cân bằng trắng theo hoạt cảnh tức là máy lập trình sẵn một số chế độ cân bằng trắng như ánh sáng ban ngày, chụp trời mây, chụp ánh đèn huỳnh quang,… Thiết lập nâng cao là sử dụng Custom White Balance.
Về cân bằng trắng, chúng tôi đã có một bài viết khá chi tiết về vấn đề này.
Khả năng quay phim
Tính đến thời điểm hiện tại, đây không phải là một yếu tố quá quan trọng vì…hầu hết máy ảnh hiện nay đều được tích hợp tính năng quay phim. Cũng đã từ lâu rồi với những người dùng máy du lịch thì mặc định máy ảnh sẽ có chức năng quay phim.
Khi đến các thiết bị cao cấp hơn là máy SLR thì mọi chuyện lại khác. Bạn sẽ phải đầu tư một thiết bị tương đối nếu muốn quay phim trên nó và học cách kiểm soát. Đầu tiên là một thiết bị cồng kềnh, khối lượng không hề nhỏ (kèm ống kính) thì việc giữ trên tay để quay liên tục sẽ không phải là ý kiến hay (chưa tính đến yếu tố rung, thẩm mỹ). Bạn cũng phải làm quen với việc vừa quay phim, vừa điểu chỉnh zoom và lấy nét. Hơn thế, cớ chế lấy nét tự động khi quay cũng khá ồn áo do motor của ống kính. Tuy nhiên quay phim trên SLR cũng mang lại hiệu quả ấn tượng. Bạn sẽ có một kiệt tác với bokeh tròn lộng lẫy hay làm chủ thể trở nên nổi bật hơn khi làm mờ sau đó lấy nét. Nếu quan tâm đến tính năng quay phim thì chiếc Canon 60D và ống kính góc rộng sẽ là lời khuyên cho bạn.
Zoom (độ phóng đại)
Zoom là một khái niệm đơn giản và sử dụng rất phổ biến. Nó có nghĩa là mang vật thể lại gần người chụp mà không cần phải di chuyển nhưng vẫn đảm bảo tính toàn vẹn của bức hình. Zoom được thể hiện bằng hệ số phóng đại X (lần). Một ống kính 28mm và có zoom tối đa 10x sẽ đưa vật thể lại gần hơn (280mm). Như vậy số X càng lớn thể hiện khả năng phóng đại hình ảnh càng cao.
Tuy nhiên bạn sẽ gặp phải những trở ngại với máy ảnh zoom lớn thì khó có khả năng ổn định hình ảnh khi ở cực đại. Cũng như đã nói từ đầu về ống kính máy ảnh, bạn sẽ phải hi sinh điều gì đó để nhận lại, ở đây zoom sẽ hi sinh chất lượng quang học của ống kính.
Với máy ảnh SLR và ống kính thay thế bạn sẽ khó zoom hơn thay vì dùng phím bấm như trên máy compact. Bạn sẽ phải làm quen với việc zoom sao cho mượt mà nhưng vẫn kiểm soát được hình ảnh. Và zoom trên máy SLR thì hoàn toàn phụ thuộc vào ống kính bạn sử dụng chứ không hề có tác động từ máy.
Cũng phải nói thêm về vấn đề “zoom kỹ thuật số”. Thực chất nó là việc bạn phóng to bức hình lên bằng cách cắt xén lại khung hình. Các nhà sản xuất thường nói đến zoom kỹ thuật số bằng cách nhân các điểm ảnh lên để đảm bảo độ nét nhưng tất cả chỉ là lời quảng cáo. Bạn có thể làm điều này tốt hơn trên một chiếc máy tính với các phần mềm chuyên dụng thay vì phó mặc cho chiếc máy ảnhtrong lòng bàn tay. Vì vậy hãy bỏ qua thông số zoom kỹ thuật số khi chọn mua máy ảnh, tôi chắc chắn nó chẳng có ý nghĩa gì với bạn.
Hệ thống ổn định ảnh
Ổn định ảnh được nhắc đến trong bài là hệ thống ổn định quang học IS (Image Stabilization). Nếu yếu tố gây rung đến bức hình thì hệ thống sẽ tạo ra một chuyển động nhỏ theo hướng ngược lại nhằm triệt tiêu. Mỗi hãng sản xuất lại có một ký hiệu về tính năng nay ví dụ như Nikon là Vibration Reduction cho phép chụp ảnh ở tốc độ thấp hơn. Chẳng hạn bình thường bạn chụp ở tốc độ 1/40 thì với việc trang bị VR chất lượng chụp ảnh tại 1/25 cũng cho chất lượng tương đương. Bạn có thể bắt gặp thông số này ở Canon là IS hay OIS (Optical Image Stabilizer) hay Panasonic là MegaOIS.
Sony và Olympus lại xây dựng hệ thống ổn định ảnh vào bên trong thân máy DSLR của mình làm đơn giản hóa thiết kế ống kính và có thể yên tâm sử dụng bất kỳ ống kính nào. Dù được thực hiện theo cách nào, tính năng ổn định hình ảnh cũng là cần thiết khi bạn cần chụp ảnh ở tốc độ cao, chụp ảnh trong điều kiện thiếu sáng và nhất là dùng với một ống zoom lớn.
Tổng kết
Chọn mua một thiết bị công nghệ chẳng bao giờ là dễ dàng cả và máy ảnh cũng không phải là ngoại lệ. Vấn đề ở đây ngoài việc kiến thức bạn có được thì cũng rất khó để quyết định bởi đôi khi biết nhiều bạn lại càng cố gắng đi tìm kiếm sự hoàn hảo. Cuối cùng để quyết định chọn chiếc máy ảnh nào hãy dựa vào những gì bạn đang có và bạn cần.
Nếu bạn cần một thiết bị nhỏ gọn và cồng kềnh thì DSLR không phải lựa chọn của bạn rồi. Hãy thử nghĩ đến những chiếc máy ảnh không gương lật như Panasonic GX1 hay thậm chí là một máy PnS như Canon S110. Bạn cũng thử suy nghĩ xem mình có thật sự cần một máy ảnh hay đơn giản là chiếc điện thoại chụp hình tốt. Nếu vậy hãy chắc chắn rằng bạn chọn được một thiết bị chụp hình tốt như Nokia Lumia 1020 hay iPhone 5. Xét về DSLR hiện tại, mức giá cũng đã phù hợp hơn với nhiều đối tượng và những gì nó mang lại có lẽ không phải bàn cãi nhiều: chất lượng hình ảnh, kiểm soát các chế độ chụp và hệ thống ống kính chất lượng, phong phú.
Sẽ là chiếc máy ảnh phù hợp với bạn nếu bạn cảm thấy hài lòng. Những bức ảnh chất lượng có thể đến từ bất kỳ thiết bị nào vị vậy hãy cẩn thận với những lời quảng cáo vì không phải lúc nào nhiều tiền và số “chấm” lớn cũng mang lại kết quả như mong muốn. Hơn tất cả, hãy để cảm xúc của bạn hòa vào nhiếp ảnh.
Chúc bạn chọn được chiếc máy ảnh như mong muốn!
Ý kiến bạn đọc