A. BÊN NGOÀI THÂN MÁY
1. Các nút điều khiển cơ bản
2. Cảm biến ảnh
Từ thuở đầu của nhiếp ảnh, máy ảnh lưu hình ảnh trên tấm kính hoặc tấm phim. Ngày nay, máy ảnh số tái tạo hình ảnh trên tấm cảm biến hình ảnh. Các tấm cảm biến được tạo thành từ hàng triệu photodiode cảm nhận ánh sáng được thiết kế thành một tấm lưới. Mỗi photodiode ghi lại một điểm nhỏ của hình ảnh và tất cả chúng tạo thành bức ảnh. Hiện có hai loại cảm biến ảnh CCD và CMOS, về cơ bản chúng hoạt động như nhau. Kích thước của cảm biến quan trọng hơn số lượng điểm ảnh trên cảm biến.- Full frame: Không kể loại "medium format", bộ cảm biến kích thước lớn nhất thường được gọi là "full frame" và có kích thước bằng tấm phim 35mm (24x36mm).
- APS-C: Nhiều máy DSLR dùng bộ cảm biến nhỏ hơn, thường được gọi là APS-C - 22x15mm hoặc tương đương khoảng 40% diện tích của bộ cảm biến full frame.
- Four Thirds System chỉ bằng 26% bộ cảm biến full frame.
- APS-H như của EOS 1D Mark III bằng 61% full frame.
- Foveon X3 của Sigma có kích thước bằng 33% full frame.
- Một máy bỏ túi hay điện thoại có kích thước cảm biến ảnh là 1/2.5" thì diẹn tích chỉ bằng 3% full frame.
3. Ống kính
Ống kính là cụm thấu kính được làm bằng thuỷ tinh, nhựa tổng hợp chất lượng cao mà ánh sáng xuyên qua nó, ánh sáng được hội tụ lại trên bề mặt phim của máy chụp phim hoặc cảm biến ảnh trong máy ảnh số. Có một số máy ảnh ống kính gắn liền cố định với thân máy như các máy du lịch PnS và có thể hoán đổi ống kính trên máy ảnh DSLR. Nhiều ông kính hoán đổi giúp bạn kiểm soát và sáng tạo được nhiều hơn hình ảnh thu nhận được.Ống kính là con mắt của máy ảnh. Nó sẽ thu gom các tia sáng và rọi chiếu các tia sáng ấy lên kính ngắm hay bề mặt cảm biến để tạo thành hình ảnh. Chất lượng của ống kính quyết định chất lượng của hình ảnh được tạo ra, cho nên ống kính là yếu tố quan trọng nhất trong việc xử lý hình ảnh. Về cơ bản, có 4 nhóm ống kính:
- Ống kính tiêu chuẩn - standard
- Ống kính góc rộng - wide angle
- Ống kính tiêu cự dài - telephoto
- Ống kính đa tiêu cự - zoom
4. Các chế độ chụp ảnh
Auto và các chế độ tự động cơ bảnĐây là chế độ dành cho người bắt đầu cầm máy ảnh. Nikon gọi là Auto mode, Canon gọi là Auto Full. Khi sử dụng chế độ này, chiếc DSLR của bạn trở thành như một chiếc PnS tự động các thiết lập phơi sáng, tốc độ màn trập, khẩu độ, tốc độ, độ nhạy sáng ISO. Bạn chỉ việc bấm nửa nút chụp lấy nét và bấm. Trong đó tự động theo mỗi chủ đề: chân dung, macro, phong cảnh, thể thao, chụp đêm.
- Thể thao hay hành động: Máy ảnh sẽ tự chọn độ nhạy sáng ISO cao và tốc độ màn trập nhanh để bắt được các chuyển động.
- Phong cảnh: Máy ảnh sẽ tự chọn các khẩu độ ông skinhs nhỏ để tăng chiều sâu cho vùng ảnh rõ.
- Chân dung: Máy ảnh sẽ mở lớn khẩu độ ống kính làm nhoà hậu cảnh, hoặc có máy ảnh tự động nhận diện khuôn mặt để lấy nét vào đúng khuôn mặt đó.
- Chụp đêm: Máy ảnh tự chọn tốc độ màn trập chậm, đủ để ghi nhận chi tiết bối cảnh hoặc đèn flash sẽ tự động nháy để rọi sáng chủ đề gần.
- Macro: Máy ảnh sẽ khống chế vùng canh nét ở khoảng cách gần, khép khẩu độ nhỏ để tăng chiều sâu cho vùng ảnh rõ.
P / Program
Nikon gọi là Program AE mode, Canon gọi là Program Shift. Chọn chế độ này, máy sẽ tự động thiết lập tốc độ màn trập và khẩu độ ống kính. Nhưng độ nhạy sáng ISO, bù trừ sáng và các thiết lập khác thì bạn tự thiết lập và kiểm soát. Bạn có thể để ISO thấp nhất để giảm độ nhiễu, và để chế độ P trong trường hợp chụp nhanh không cần phải suy nghĩ tính toán.
A / Av Aperture Priority
Đây là chế độ bán tự động cho phép bạn chủ động chọn khẩu độ (độ f của ống kính) theo ý muốn, và máy tự động chọn tốc độ màn trập cần thiết tương ứng với khẩu độ bạn chọn để đúng sáng. Chế độ này còn được gọi là “ưu tiên khẩu độ”. Ví dụ bạn muốn chụp khẩu độ f/2.8, bạn sẽ chủ động chỉnh khẩu f/2.8, khẩu độ sẽ tự máy chọn với tình trạng ánh sáng hiện tại bạn chụp.
S / Tv / Shutter Priority
Cả Nikon và Canon đều gọi là ưu tiên tốc độ màn trập, nhưng Nikon viết tắt là chữ S, Canon viết tắt là chữ Tv. Chế độ này ngược lại chế độ A / Av trên. Bạn chủ động chọn tốc độ màn trập và máy tự động chọn khẩu độ tương ứng cho đúng sáng. Thường chọn chế độ này khi người chụp muốn duy trì một tốc độ cao để tránh rung lắc và khẩu độ phó mặc cho máy tuỳ chọn tương ứng.
M (Manuel)
Cả hai hãng Nikon & Canon đều viết tắt là M, nhưng Nikon gọi là Manual mode, Canon gọi là Metered manuel. Chế độ này hay gọi là chế độ chụp manual, chỉnh hoàn toàn bằng tay. Bạn sẽ phải chủ động chọn tốc độ màn trập, khẩu độ cho tất cả mọi cú bấm máy. Đặc biệt, ở chế độ này, bạn có thể chụp tốc độ hoàn toàn chủ động Bulb (bấm máy và màn trập mở liên tục đến khi nào thả nút chụp thì màn trập mới đóng lại) dành cho các trường hợp phơi sáng lâu.
Ev (Exposure value)
Các chế độ chụp P, S và A còn có thể tinh chỉnh thêm nữa bằng cách tăng giảm các giá trị EV. Đây là thang độ chia thành nhiều nấc, mỗi nấc tương ứng với một tỷ lệ lộ sáng. Giá trị Ev thường được điều chỉnh bằng vòng xoay hoặc nút bấm.
Một số máy ảnh có chế độ Exposure Bracketing (chụp bù trừ tự động). Khi chụp ở chế độ này, máy ảnh sẽ tự động chụp một loạt 3, 5 hoặc 7 tấm ảnh với các giá trị lộ sáng khác nhau để tăng thêm khả năng có một bức ảnh chụp đúng sáng nhất.
5. Đèn
Máy ảnh du lịch (compact/pns) có đèn gắn cố định trong thân máy được kích hoạt đồng bộ với màn trập máy ảnh, nhưng không thể kiểm soát thời gian và cường độ sáng của đèn. Máy DSLR thì có đèn pop-up (cóc) có thể kiểm soát để đồng bộ với màn trập, cường độ sáng phù hợp với tuỳ cảnh vật.- Auto flash: Máy ảnh sẽ tự động nháy sáng đèn flash trong điều kiện ánh sáng yếu. Đèn flash sẽ là nguồn sáng chính.
- Off flash: Không cho đèn tự động nháy sáng. Máy ảnh sẽ tự động nâng độ nhạy sáng ISO lên và chọn các khẩu độ mở rộng nhất để có thể chụp ảnh trong điều kiện nguồn sáng tự nhiên hạn chế.
- Fill flash: Máy ảnh sẽ tự điều chỉnh để cân bằng nguồn sáng tự nhiên và lượng sáng của đèn flash.
- Red-eye reduction: Máy ảnh sẽ nháy sáng đèn flash một lần trước khi nháy sáng lần thứ hai để chụp ảnh. Lần sáng trước nhằm làm cho đồng tử trong mắt của người được chụp co lại để giảm hiệu ứng mắt đỏ. Đây là hiệu ứng nhiếp ảnh chứ không phải hiện tượng tồn tại trong tự nhiên.
- On flash: Đèn sẽ sáng liên tục khi chụp, bất kể là hoàn cảnh ánh sáng nào.
6. Hệ thống ngắm
Kính ngắm chỉ là một bộ phận để xác định khung hình. Hình ảnh qua kính ngắm lúc nào cũng rõ nét. Để trợ giúp cho việc lấy nét, các máy ảnh có thêm một cơ phận dò cự ly được thiết kế chung với kính ngắm. Đó là một cặp lăng kính nhỏ hoặc gương nằm bên trong thân máy ảnh. Một gương mờ đặt cố định mà ta có thể nhìn xuyên qua. Cặp gương hay lăng kính kia sẽ xoay khi ống kính của máy ảnh được điều chỉnh lấy nét, khi hai hình ảnh chồng lên nhau tức là ánh sáng qua ống kính đã được hội tụ vào cùng một khoảng cách.
B. CÁC CHẾ ĐỘ ĐO SÁNG
Các thông số về thời chụp đều phụ thuộc vào bốn yếu tố biến đổi:- Cường độ ánh sáng hắt vào chủ đề, hay độ sáng của chủ đề phản chiếu tới máy ảnh (hoàn cảnh sáng).
- Độ nhạy của bộ cảm biến đối với ánh sáng (ISO)
- Khoảng thời gian cho bộ cảm biến lộ sáng (tốc độ màn trập).
- Lượng sáng đi vào bộ cảm biến (điều khiển bằng khẩu độ ống kính)
Các máy ảnh đo sáng qua ống kính (through the lens - TTL), dựa vào lượng sáng thật sự tạo thành hình ảnh và sẽ tác dụng đến cảm biến. Khi thay đổi ống kính, hoặc gắn thêm kính lọc (filter) vào trước ống kính, hệ thống đo sáng TTL đó tự động điều chỉnh theo sự thay đổi đó.
- Đo sáng trung tâm (center-weighted average metering): Chế độ đo sáng tập trung ở khu vực chính giữa hơi chệch xuống dưới, kiểu đo sáng thường được gọi là "đo trung bình ưu tiên giữa", bởi vì các yếu tố quan trọng nhất của mọi bức ảnh thường là nằm ở khu vực này.
- Chế độ đo sáng ma trận (matrix metering hay multi segment metering): Kính ngắm của máy có hệ thống đo sáng này được chia thành nhiều phần (segment), mỗi phần sẽ đo sáng một khu vực hình ảnh nhất định, máy ảnh sẽ nhận mọi thông số và tính ra độ nhạy, tốc độ, khẩu độ phù hợp với hoàn cảnh sáng.
- Đo sáng điểm (spot metering): Đo sáng tại một điểm nhỏ, cho thông số rất chính xác. Điểm đo sáng nằm ở giữa tâm kính ngắm, và một số dòng máy ảnh cho phép dịch chuyển vị trí đo sáng điểm này để thuận tiện cho việc bố cục khung hình.
C. CÂN BẰNG TRẮNG
Mắt người tự động thích ứng rất nhanh với những thay đổi về ánh sáng, nhưng bộ cảm biến ảnh của máy ảnh lại không thể tự động thích ứng chính xác như vậy. Đây là vấn đề chính của màu sắc trong ảnh. Màu sắc của bức ảnh được chụp nhiều khi không giống với màu tự nhiên, và vì vậy máy ảnh số phải cân bằng lại màu sắc theo cách cân bằng trắng (white balance).White Balance là cân chỉnh ánh sáng theo màu trắng - khái niệm quen thuộc với dân quay video hồi trước. Ánh sáng ban ngày là một nguồn sáng lạnh không màu nhưng nếu trời có mây mù hay ta bước vào bóng râm thì mọi vật thể đều có màu lẫn với sắc xanh. Trong căn phòng thắp đèn vàng dây tóc, ánh sáng ở đó sẽ có sắc đỏ cam ấm áp trong khi ở trong phòng ánh đèn huỳnh quang thì mọi màu sắc pha chút xanh lá cây. Cân bằng trắng là công việc làm cho hình ảnh được chụp có màu sắc trung thực. Máy ảnh số nào cũng có các chế độ White Balance.
- Auto White Balance: tự động cân bằng màu sắc
- White Balance theo các nhóm nguồn sáng: ngoài trời nắng, dưới mây mù, trong nhà, dưới ánh đèn vàng, dưới ánh đèn huỳnh quang... máy ảnh tự động tuỳ hoàn cảnh thực tế để ghi nhận màu trắng đúng thật.
- Nhiệt độ K: người dùng tự điều chỉnh các cấp độ cân bằng trắng theo thang độ K.
"Chiếc máy ảnh là một tấm gương soi có trí nhớ nhưng không biết tư duy" (Arnold Newman 1918-2006)
Tìm hiểu cơ bản để biết thiết bị mình sử dụng giúp làm chủ nó tốt hơn. Cụ thể là điều chỉnh các vòng xoay, nút bấm hay lựa chọn trong menu phù hợp và nhanh nhạy dần dần như phản xạ tự nhiên, giúp người mới dùng máy ảnh chụp ảnh tốt hơn. Tất cả thao tác ấy giúp người dùng kiểm soát các thông số để đảm bảo ảnh đúng sáng hoặc đúng ý. Các
Ý kiến bạn đọc