Khi quyết định mua một chiếc DSLR để chơi xuân, trước hết nên xác định nhu cầu của mình. Tiếp theo, bạn nên cân nhắc những yếu tố của máy hỗ trợ tối đa nhu cầu đó, như kích cỡ chip cảm quang, hệ thống chống rung, hay tốc độ.
Máy ảnh số ống kính rời cho chất lượng hình tốt hơn, tính linh động cũng cao hơn. Ảnh: Airblade14
Máy ảnh số ống kính rời sẽ đem lại cho bạn chất lượng hình vượt trội và tính linh động cao, thể hiện bằng các tùy chỉnh đa dạng, hàng loạt các ống kính chuyên biệt và phụ kiện phong phú. Nhưng cũng chính vì thế mà nhiều người cảm thấy khó lựa chọn một chiếc DSLR ưng ý.
Tuy nhiên, để việc lựa chọn trở nên đơn giản, trước hết, nên xác định rõ nhu cầu của mình là gì. Có phải bạn chỉ cần chiếc máy số ống kính rời sử dụng đơn giản như máy ngắm chụp, hay thực sự muốn "vắt kiệt" tất cả những tính năng của máy? Rất nhiều chiếc DSLR dòng khởi điểm cho phép sử dụng như máy point-and-shot thông qua các chế độ đặt sẵn, trong khi các model chuyên nghiệp thì phải tùy chỉnh nhiều hơn.
Sau đây là một số gợi ý để cân nhắc khi mua máy ảnh DSLR.
Kích cỡ chip cảm quang
Ba kích thước cảm quang phổ biến: Full Frame, APS-C and Four-thirds. Cảm biến kích thước nhỏ 'gọt bớt' khung hình và làm cho có cảm giác chụp từ ống kính có tiêu cự dài hơn.
Hiện tại máy số ống kính rời sử dụng hai loại cảm quang CCD và CMOS với 3 kích thước, xếp từ lớn tới nhỏ như sau: Full Frame (nguyên khung - bằng kích thước phim 35 mm: 36 × 24 mm), APS-C (dao động từ 20,7 × 13,8 mm tới 28,7 × 19,1 mm - với kích thước đường chéo nhỏ hơn Full Frame 1,5 đến 1,6 lần) và Four-Thirds (4/3 inch 18 × 13,5 mm).
Do phần lớn các máy DLSR đều xây dựng trên chuẩn máy phim 35 mm, nên những cảm quang kích thước nhỏ hơn sẽ chịu một hiệu ứng gọi là “crop factor” (yếu tố thu nhỏ). Như hình trên, cảm quang nhỏ sẽ bắt khung hình nhỏ hơn tạo cảm giác hình được chụp bằng ống kính có tiêu cự lớn hơn tiêu cự công bố khi so sánh với khổ 35 mm (lớn hơn khoảng 1,5 tới 1,6 lần ở khổ APS-C, và 2 lần ở khổ Four-Thirds). Lưu ý – tiêu cự càng lớn thì góc nhìn càng nhỏ và càng kéo gần lại được vật thể ở xa.
Nếu đã quen với tiêu cự ở máy phim 35 mm và đang sở hữu cả đống ống kính, khi chuyển qua các máy "crop" với cảm biến nhỏ, bạn sẽ cảm thấy không quen vì góc nhìn sẽ giảm đi đáng kể. Còn nếu sử dụng DSLR Full Frame (nguyên khung) thì sẽ càm thấy "thân thuộc" hơn.
Người hay chụp xa (tele) sẽ thấy dùng máy có cảm quang nhỏ hay hơn vì nó vươn được xa hơn. Trái lại, người chụp cảnh rộng nếu dùng loại đó sẽ bị thiệt thòi bởi khung hình đã bị thu hẹp lại. Dĩ nhiên, hiện nay có rất nhiều ống kính góc rộng được thiết kế “chỉ cho máy số” cảm quang nhỏ.
Vậy kích thước cảm quang nào là phù hợp với bạn?
Chụp thể thao và thiên nhiên hoang dã thì cảm quang nhỏ có lợi hơn bởi nó mang lại hiệu ứng phóng lớn hình cho các ống kính tele và zoom.
Máy sử dụng cảm quang Full Frame bao giờ cũng lớn nhất và đắt nhất. Đây thường là lựa chọn của các nhiếp ảnh gia nâng cấp lên từ máy phim bởi họ đã có hàng đống các ống kính đắt tiền. Cảm quang kích thước lớn cũng đồng nghĩa với khả năng chụp thiếu sáng tốt. Nhược điểm của hệ thống này là kích thước lớn, đắt tiền; hơn nữa phải dùng những ống kính thực sự tốt và đắt thì mới cho ảnh đẹp trên toàn khung hình; và cũng chỉ có vài model mà lựa chọn. Ngoài ra máy Full Frame cũng không có lợi thế khi chụp xa.
APS-C mới là định dạng được áp dụng phổ biến nhất trên các máy DSLR với hầu hết các model của Canon, Nikon, Pentax và Sony. Với hệ số cúp 1,5 hoặc 1,6 lần, bạn sẽ phải cần ống kính góc rộng hơn để có góc bằng khổ 35 mm. Máy loại này thường rẻ hơn rất nhiều so với hệ thống Full Frame và ống kính cho nó giá cũng chấp nhận được. Các ống kính bán kèm theo máy (kit lens) cũng là những khởi đầu tốt cho phép chụp từ góc rộng tới tele tầm ngắn.
Four Third (bốn phần ba) là hệ “số hóa hoàn toàn” phát triển bởi Olympus và hiện đang được áp dụng cho các máy Olympus và Panasonic. Khác với các hệ thống khác trên thị trường, hệ Four Third không phát triển trên máy phim có sẵn và dùng ngàm ống kính hoàn toàn khác, do vậy tất cả các ống kính của hệ thống này được thiết kế cho máy ảnh số và do đó không áp dụng hệ số cúp. Với kích thước cảm quang nhỏ nhất, hệ Four Third sẽ có thân máy và ống kính gọn hơn một chút. Cho dù về nguyên tắc, cảm biến nhỏ hơn sẽ cho hình ảnh hơi nhiễu (hạt) so với khi chụp ở độ nhạy cao và thiếu sáng. Tuy nhiên, thực thế sử dụng cho thấy khác biệt này cũng không ghê gớm lắm.
Khi mua máy ảnh số ống kính rời, bạn cũng nên chú ý tới tốc độ của nó vì lợi thế của DSLR là lấy nét và chụp nhanh, ngoài ra còn khả năng chống rung của máy.
Sau khi xác định được sẽ mua máy ảnh Full Frame hay máy DSLR thông thường hoặc Four Thirds, bước tiếp theo là xem những yếu tố như chống rung, tốc độ.
Sony là một trong những hãng có chống rung trong thân máy. Ảnh: blackseal
Hệ thống chống rung
Có hai cơ chế chống rung được áp dụng ở máy DSLR đó là chống rung quang học (dịch chuyển một thấu kính trong ống kính để đối trọng lại rung) và chống rung cơ học (dịch chuyển cảm quang trong thân máy). Mỗi hãng lại có một cách đặt tên riêng cho chống rung. Ví dụ, “siêu ổn định ảnh” (Super SteadyShot), “chống rung” (Anti Shake), "giảm dao động” (Vibration Reduction), “siêu ổn định ảnh quang" (Mega OIS).
Mặc dù kết quả cuối cùng là như nhau, nhưng rõ ràng là hệ thống chống rung trong thân máy sẽ hạn chế rung cho bất cứ ống kính nào. Trong khi đó, chống rung quang trên ống kính thì chỉ cho cái nào tích hợp công nghệ đó mà thôi. Chống rung quang có lợi là hiệu quả thấy ngay khi bố cục khung hình, nhưng sẽ rất tốn kém. Tại thời điểm này chỉ có Sony, Pentax và Olympus là có chống rung trong thân máy còn lại Canon, Panasonic và Nikon vẫn áp dụng chống rung quang (trong đó có cả các ống kit bán kèm).
Nikon D3 có tốc độ chụp liên tiếp là 10 khung hình/giây. Ảnh: dt0306
Tốc độ
Một chiếc DSLR dù là dòng khởi điểm cũng lấy nét và chụp nhanh hơn bất kỳ một chiếc máy compact nào. Hơn nữa, dòng càng cao thì lấy nét càng nhanh hơn. Tuy nhiên, sự khác biệt lại nằm ở tốc độ chụp liên tiếp - tính năng cần thiết khi chụp thể thao và thiên nhiên hoang dã.
Hầu hết dòng khởi điểm đều cho phép chụp liên tiếp 2,5 hoặc 3 hình mỗi giây. Nhược điểm của chúng là số hình chụp được ở chế độ liên tiếp nhanh (burst mode), đặc biệt khi để chế độ chất lượng hình cao nhất (RAW), hạn chế.
Tuy nhiên, nếu bạn là “con nghiện tốc độ” thì nên bỏ qua dòng khởi điểm mà sở hữu một chiếc dòng trung hoặc bán chuyên. Ở phân khúc này tốc độ chụp liên tiếp là ít nhất 5 hình/giây, mà Canon EOS 1D Mark III và Nikon D3 là những ứng cử viên sáng giá với khả năng chụp lần lượt là 10 và 11 khung hình/giây. Lưu ý, bộ nhớ đệm (buffer) càng lớn thì máy càng có khả năng chụp nhiều hình trong một lần liên tiếp nhanh (burst).
Kích thước, trọng lượng và độ bền
Như đã đề cập, máy ảnh DSLR có rất nhiều hình dáng và kích thước khác nhau, từ siêu gọn nhẹ khởi điểm tới các mẫu chuyên nghiệp to và chắc như cối đá. Nếu hay phải tác nghiệp ở những nơi ẩm ướt bụi bặm thì nên kiếm những chiếc máy bền thời tiết, vỏ hợp kim magiê, và thêm hệ thống rung rũ bụi cho cảm quang thì càng tốt. Dĩ nhiên, thêm tính năng này thì giá cũng chẳng thể rẻ được.
Còn bạn thích một cái máy gọn nhẹ thì đã có những mẫu DSLR chỉ khoảng 500 gram với một ống kính nhỏ.
Màn hình và chế độ ngắm chụp bằng màn hình/ngắm sống (Live View)
Trước đây, một đặc tính dường như là để khẳng định dòng máy ảnh số ống kính rời là chỉ có thể ngắm chụp qua ống ngắm quang mà thôi. Dĩ nhiên, giờ ngày càng nhiều máy ảnh loại này cho phép ngắm chụp bằng màn hình LCD cứ như máy compact.
Chế độ Live View ở máy DSLR không phải là không có nhược điểm, nó làm quá trình chụp chậm hơn rất nhiều bởi thiết kế của DSLR là phải lật gương lên để cho phép Live-View nhưng lại phải lật gương xuống để lấy nét và chụp. Một số máy cho phép lấy nét ngay ở trong Live View nhưng cũng khá chậm.
Thực tế, chế độ này rất hữu ích, thứ nhất là để kiểm tra độ nét, sau đó là giúp chụp trong những tư thế khó khăn (máy thấp sát đất hoặc cao quá đầu). Một số máy có màn hình xoay được nên việc ngắm chụp trong những tư thế khó khăn lại dễ dàng hơn rất nhiều.
Mua một chiếc DSLR thực ra chỉ là bước bắt đầu cho một “mối quan hệ lâu dài” với một hệ thống máy ảnh, bởi vậy cần có một “bức tranh toàn cảnh”. Thực chất, chiếc máy ảnh (body) chỉ là một phần trong công thức kiến tạo nên một bức hình có chất lượng mà trong đó ống kính cũng quan trọng tương đương.
Ý kiến bạn đọc